Các cụ xưa nói: ‘Chết đói cũng không gõ cửa nhà phụ nữ mất chồng’, vì sao thế?
Những lời dạy của tổ tiên chúng ta đúc kết vào tục ngữ, ca dao, trong đó có 1 câu thế này: "Chết đói cũng không gõ cửa nhà phụ nữ mất chồng", hãy tìm hiểu ý nghĩa là gì nhé!
Chết đói cũng không gõ cửa nhà phụ nữ góa phụ
Góa phụ là chỉ những người có chồng nhưng chồng đã mất. Đối với xã hội phong kiến thời xưa, nếu phụ nữ góa chồng thì việc tái hôn so với thời xưa sẽ khó khăn hơn rất nhiều. Hơn nữa, thời cổ đại là xã hội nam quyền, nhiều đàn ông trong xã hội có vai trò quan trọng, là trụ cột gia đình, nếu phụ nữ mất chồng, vậy thì cũng không khác gì thiếu vắng đi cơ sở để sinh tồn, trở thành một nhóm người yếu thế. Đó là vào thời xưa.
Bởi vì môi trường và hoàn cảnh sống của người góa phụ thời xưa cũng tương đối khó khăn, thiếu thốn, nếu những người nghèo khổ và ăn xin đi xin bố thí của những người góa phụ thì rất khó khăn cho cả 2 bên.
Bên cạnh đó, quan niệm “chết đói cũng không gõ cửa phụ nữ góa phụ” cũng nêu ra một đạo lý đạo đức cơ bản nhất của người xưa. Thời đó cho rằng, một người đàn ông đứng trước nhà một phụ nữ góa phụ, thị phi sẽ nhiều, phiền phức cũng vậy”, nếu ai đó thường xuyên đến gõ cửa nhà phụ nữ góa phụ thì đó sẽ là chủ đề để hàng xóm bàn tán xôn xao. Bởi vậy, người xưa cho rằng: “Thà nghèo đói chứ không đi gõ cửa nhà góa phụ”, để tránh vướng vào thị phi, tổn hại đến danh tiếng 2 bên.
Góa phụ thời xưa còn ‘đáng giá’ hơn nữ nhân tái giá
Người xưa có câu: “Thà lấy góa phụ chứ không lấy nữ nhân tái giá”, đây là một trong những quan điểm hôn nhân cổ xưa, vậy tại sao lại có cách nói như vậy?
Điều này đã cho thấy rằng, trong quan điểm hôn nhân thời xưa, người phụ nữ “tái giá” không được coi trọng bằng phụ nữ “góa phụ”, nhưng tại sao người xưa lại có cách nhìn như vậy?
Từ “tái giá” được xuất hiện sớm nhất trong “Đáp Tô Vũ Thư”, là bức thư được viết bởi tướng quân Lý Lăng nổi tiếng thời nhà Hán gửi cho nhà ngoại giao Tô Vũ.
Nội dung trong thư có một đoạn: “Trước đây ngài từng tự mình đi đến nước địch, nhưng không gặp thời, suýt nữa phải bỏ mạng, lênh đênh vất vả, nhiều lần suýt mất mạng ở phía Bắc. Đến trung niên, tóc bạc hồi hương, thấy cha mẹ đều mất, vợ thì tái giá. Tin này hiếm hoi ở nhân gian, xưa nay chưa từng có”.
Rất nhiều người có lẽ không quen thuộc với Lý Lăng, nhưng ông nội của ông ấy, Phi tướng quân Lý Quảng thì rất nhiều người biết đến, cũng là một đại tướng quân thời Hán được người người ca ngợi.
Thân là cháu trai của Phi tướng quân Lý Quảng, Lý Lăng từ nhỏ đã theo ông nội vào Nam ra Bắc, cũng lập được rất nhiều công danh hiển hách. Tiếc là trong một lần chinh chiến với Hung Nô, ông đã bị thuộc hạ của mình bán đứng nên bị Hung Nô bắt làm tù binh.
Lý Lăng mặc dù bị Hung Nô bắt giữ, nhưng ông vẫn luôn “Không phục dưới uy quyền, không đổi dù nghèo hèn”, một lòng một dạ trung thành với nhà vua và đất nước.
Có điều, những gì ông làm thì không ai biết. Lý Lăng sau khi bị Hung Nô áp giải đi mất, triều đình đã hiểu lầm ông…
Hay tin dữ, Lý Lăng cảm thấy vô cùng đau khổ. Sau đó ông đã lấy công chúa của Hung Nô làm vợ, và cũng nhận một chức quan tại Hung Nô, từ đấy về sau đoạn tuyệt qua lại với triều Hán.
Nhưng dù là vậy, Lý Lăng vẫn giữ sự trung lập, không vì sống ở Hung Nô mà phản bội quê hương của mình.
Sau này chuyện Lý Lăng một lòng trung thành với đất nước được sáng tỏ, triều đình nhà Hán cảm thấy vô cùng hối hận, Hán Chiêu Đế sai Tư Mã Quang đến Hung Nô để đón Lý Lăng về triều, nhưng tiếc là không được như ý nguyện.
Sau đó Tô Vũ, một nhà ngoại giao trung thành của vua Hán Vũ Đế đã thay mặt cho triều đình sang Hung Nô, nhưng không may lại bị Đan Vu bắt giam.
Để khiến cho Tô Vũ phục tùng Hung Nô, Đan Vu đã nhờ Lý Lăng đi khuyên nhủ. Và sau đó 2 người đã có một cuộc trò chuyện giống như những gì đã đề cập trong bức thư trên.
Trong lá thư từ “tái giá” ở đây là chỉ việc người vợ vẫn còn trẻ mà đã đi thêm bước nữa. Lý Lăng đã nói ra hoàn cảnh gia đình của Tô Vũ lúc đó, cha mẹ mất sớm, vợ còn trẻ cũng đã đi thêm bước nữa, ông mượn điều này để khiến Tô Vũ ở lại Hung Nô.
Cũng từ đó mà người ta đã gọi người phụ nữ bị chồng bỏ hoặc đã đổi chồng là “tái giá”.
Người xưa rất coi trọng việc “tam tòng tứ đức” của người phụ nữ, và người phụ nữ cũng rất coi trọng danh tiết của mình. Họ cho rằng một khi đã lấy chồng, thì phải giúp chồng dạy con, một mực chung thủy từ đầu đến cuối.
Bởi vậy, thời xưa, nếu phụ nữ mà bị nhà bên chồng bỏ, người khác thường cho rằng người phụ nữ như vậy thì ắt hẳn đã phạm phải lỗi lầm gì to lớn.
Còn “góa phụ” lại là một tình huống bị động, chồng mất là việc chẳng ai mong muốn nên thường không liên quan trực tiếp đến phẩm hạnh của người này.
Cũng có nhiều góa phụ sau khi chồng mất, vẫn một lòng vất vả nuôi con khôn lớn, đồng thời cố hết sức phụng dưỡng cha mẹ chồng, cho nên những cơ cực, dũng cảm, kiên cường của người phụ nữ ấy thường được người khác khâm phục.
Dĩ nhiên đến thời hiện đại, quan điểm hôn nhân của nam và nữ đã không còn giống như trước nữa, tỉ lệ ly hôn cũng ngày càng cao hơn so với khi xưa, những cặp vợ chồng có thể bên nhau hạnh phúc cho đến bạc đầu ngày càng ít so với ngày xưa.
Nguồn: https://phunutoday.vn/cac-cu-xua-noi-chet-doi-cung-khong-go-cua-nha-phu-nu-mat-chong-vi-sao-the-d373486.html